Trong chương trình sẽ có hoạt động rất thiết thực là khám tầm soát miễn phí 4 bệnh (gồm đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh phổi tắc nghẽn kinh niên và ung thư vú) cho người dân trong độ tuổi từ 20-69 dự ngày hội.
Ban tổ chức cho biết, việc khám, tư vẫn miễn phí này sẽ do các thầy thuốc bệnh viện tuyến Trung ương thực hiện, như: BV K Trung ương, BV Phổi Trung ương, BV Nội tiết Trung ương, BV Tim Hà Nội…
Được biết, tổng giá trị gói khám miễn phí là hơn 3.000.000 đồng. Những người dân đến sớm tham dự đi bộ sẽ được tặng áo của chương trình.
Ngoài ra, người dân còn có cơ hội nhận được quà tặng dự khám là 1 bình nước thủy tinh ủng hộ phong trào nói không với rác thải nhựa. Đồng thời tham gia các hoạt động nghe tham vấn dinh dưỡng và sức khỏe, đồng diễn dân vũ, đạp xe tuyên truyền cổ động hưởng ứng gian đái tháo đường và phổi tắc nghẽn mãn tính.
Người dân tham dự tầm soát ung thư vú trên xe khám lưu động.
Theo các chuyên gia y tế, các bệnh không truyền nhiễm (như đái tháo đường, tăng áp huyết, ung thư vú...) đang trở thành thảm họa của tầng lớp hiện đại, chiếm 66% gánh nặng bệnh tật. Các bệnh không lây nhiễm đang là căn nguyên trực tiếp gây nên tình trạng quá tải bệnh viện, gia tăng nghèo đói và sức ép lên sự phát triển kinh tế, xã hội.
căn do của bệnh không lây nhiễm được xác định có liên can đến các yếu tố hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ăn nhiều chất béo, ăn ít rau - củ - quả, ăn quá ngọt hoặc quá mặn, lười vận động... Lối sống trên đang ảnh hưởng trực tiếp đến thực trạng thừa cân, béo phì, tăng áp huyết, tăng đường máu, tăng cholesterol... hiểm nguy hơn, các nguyên tố nguy cơ trên ngày một gia tăng tại Việt Nam.
Ngành y tế kêu gọi người dân chủ động bảo vệ sức khỏe, giảm nguy cơ mắc bệnh không lây và các bệnh lý khác bằng chế độ ăn uống, vận động khoa học, không hút thuốc lá, hạn chế uống rượu bia, chủ động khám bệnh định kỳ để phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời, tránh biến chứng hiểm nguy xảy ra.
Bệnh không lây là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, là một trong những thách thức chủ yếu trong thế kỷ 21. Trong năm 2016, bệnh không truyền nhiễm gây ra 71% (41 triệu) trong tổng số 57 triệu tử vong trên toàn cầu.
Các chuyên gia nhấn mạnh, các bệnh không truyền nhiễm chính gây ra các ca tử vong này là bệnh tim mạch, chiếm 44% trong tổng số tử vong do BKLN và 31% tử vong toàn cầu; ung thư chiếm 22% tổng số tử vong do BKLN, 16% tử vong toàn cầu; bệnh phổi mạn tính chiếm 9% tổng số tử vong do BKLN, 7% tử vong toàn cầu và đái tháo đường, chiếm 4% tử vong do BKLN và 3% tử vong toàn cầu.
Bệnh van tim xảy ra khi một hoặc nhiều van tim không thực hành tốt chức năng đóng mở cho máu lưu thông theo một chiều.
Vai trò của van tim
Quả tim của chúng ta có 4 buồng: 2 buồng tim ở phía trên và 2 buồng tim ở phía dưới. Các van tim kiểm soát hướng đi của dòng máu giữa 4 buồng tim. Các buồng tim ở phía trên gọi là tâm nhĩ phải và tâm nhĩ trái; các buồng tim ở phía dưới gọi là tâm thất phải và tâm thất trái. Các tâm nhĩ nhận máu từ các tĩnh mạch trở về tim và bơm máu xuống các tâm thất. Các tâm thất bơm máu ra khỏi tim vào các động mạch.
thường nhật tim có 4 van: van ba lá ở bên tim phải cho phép dòng máu chảy từ tâm nhĩ phải xuống tâm thất phải; van hai lá ở bên tim trái kiểm soát dòng máu chảy từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái; van động mạch phổi giúp cho máu chỉ đi theo một chiều từ tâm thất phải lên động mạch phổi và từ đó máu được thảo luận ôxy ở phổi; van động mạch chủ giúp cho máu chỉ đi theo một chiều từ tâm thất trái lên động mạch chủ (là động mạch chính đưa máu từ tim đi nuôi cơ thể).
Các van tim giống như các cánh cửa chỉ mở một chiều. Ví dụ như van động mạch chủ và van động mạch phổi sẽ giúp cho dòng máu từ động mạch chủ và động mạch phổi chẳng thể chảy trái lại các buồng tâm thất ứng. Van ba lá và van hai lá được gắn với tâm thất bởi các cột cơ và dây chằng đặc biệt. Các cột cơ và dây chằng này kiểm soát sự hoạt động của van tim.
Các dạng bệnh van tim
Có 2 dạng thường gặp trong bệnh van tim, đó là bệnh hở van và hẹp van tim.
Hẹp van tim:
Là khi lá van không còn mềm mại, bị dày hoặc dính các mép van, làm hạn chế khả năng mở và cản ngăn sự lưu thông của máu qua đó. Tim phải bơm mạnh hơn để buộc máu qua chỗ hẹp.
Hở van tim:
Là khi van chẳng thể đóng kín, làm cho một phần máu bị trào ngược trở lại buồng tim đã bơm máu trước đó. Hở van thường là do van bị co rút, thoái hóa hoặc giãn vòng van hay dây chằng van quá dài hoặc đứt dây chằng treo van tim. Khi hở van, tim phải làm việc nhiều hơn để bù đắp khối lượng máu bị thiếu hụt do trào ngược và xử lý khối lượng máu tồn dư cho lần co bơm tiếp theo.
Một số trường hợp có thể gặp phối hợp cả hẹp và hở van tim và bệnh của nhiều van tim trong cùng một bệnh nhân.
Cứ mỗi giờ trôi qua lại có hơn 300 lít máu được tim bơm đi nuôi cơ thể. thành ra, bệnh van tim cho dù nhẹ hay nặng đều có thể ảnh hưởng tới chức năng bơm máu của tim, thỉnh thoảng gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Hình ảnh van tim bình thường và van tim bị hẹp.
duyên cớ do đâu?
Có nhiều căn nguyên gây bệnh van tim, trong đó có các căn nguyên chính sau:
Van tim do khiếm khuyết bẩm sinh:
Điều này có tức là van bị lỗi ngay khi còn ở bào thai, thường gặp ở van động mạch chủ. Khuyết tật van tim bẩm sinh thường được chẩn đoán trong thời thơ dại.
Do bệnh cơ tim:
Có thể mắc từ trước khi sinh hoặc là biến chứng của bệnh khác trong quá trình phát triển như sốt do virut hay viêm nội tâm mạc. Bệnh cơ tim làm thay đổi cấu trúc tim và gây hở van.
Do nhồi máu cơ tim:
Làm tổn thương dây chằng và các trụ cơ gây ra giãn hoặc đứt dây chằng hoặc trụ cơ gây ra hở van tim.
Do tuổi cao:
Khi có tuổi, van trở nên kém linh hoạt, dễ bị rách, dễ bị mảng bám canxi tại van (vôi hóa van tim) làm van bị dày lên và xơ cứng, hạn chế lưu lượng máu đi qua van.
Do bệnh phong thấp do liên cầu khuẩn:
Thường gặp ở trẻ nhỏ từ 5 - 15 tuổi. thương tổn van tim do liên cầu khuẩn còn được gọi là bệnh thấp tim. Thấp tim làm cho van bị dày dính, co kéo hoặc vôi hóa hay hẹp khít lâu ngày dẫn đến đóng không kín gây hẹp - hở van. Tuy nhiên, các triệu chứng của tổn thương van tim thường chỉ xuất hiện khi trẻ đã ở tuổi trưởng thành. dùng kháng sinh đúng và đủ liều để điều trị viêm họng ở trẻ, có thể ngăn ngừa bệnh này.
Do sa van hai lá:
Sa van hai lá xảy ra khi 2 lá van không đóng kín, các mép van không áp sát vào nhau mà một trong hai hoặc cả hai nằm giữa buồng tim trên (nhĩ trái) trong thời kỳ tâm thu.
Ngoài ra, bệnh lý van tim còn do một số bệnh khác như: bệnh động mạch vành, tăng huyết áp, phình động mạch chủ hoặc một số thuốc, phương pháp điều trị (bức xạ) cũng có thể gây hẹp, hở van tim.
Dấu hiệu nhận biết và chừng độ hiểm
Tùy tình trạng bệnh mà có bộc lộ triệu chứng lâm sàng khác nhau, tùy loại trình bày bệnh như hẹp van, hở van hoặc phối hợp vừa hẹp vừa hở... thường ngày, người ta chia ra làm 4 mức độ dựa vào diện tích mở van đo được gồm: nhẹ, nhàng nhàng, nặng, rất nặng. Đối với hở van siêu âm cũng chia làm 4 chừng độ: hở 1/4 (nhẹ), 2/4 (làng nhàng), 3/4 (nặng), 4/4 (rất nặng).
Bệnh van tim trở thành hiểm khi tình trạng hẹp, hở van tim tiến triển nặng hơn và gây rối loạn chức năng bơm máu của tim. Hậu quả của bệnh van tim là rối loạn nhịp tim, suy tim, đột quỵ não nếu không được điều trị tốt.
Bệnh van tim nặng, khi đó người bệnh có thể gặp một hoặc nhiều triệu chứng sau đây:
Khó thở:
Người bệnh có thể cảm nhận được điều này khi hoạt động gắng công hoặc khi nằm đầu thấp.
mỏi mệt, choáng ngất:
Người bệnh có thể bị mệt mỏi ngay cả khi làm các công việc hàng ngày. Chóng mặt, choáng ngất có thể xảy ra khi tiến triển của bệnh nặng lên.
Đánh trống ngực:
Hồi hộp kèm theo cảm giác lo âu có thể xảy ra. Khi đó, tim bất chợt đập nhanh hơn thường ngày, cũng có khi nó bỏ qua một vài nhịp.
Đau thắt ngực (đau tim):
Thường gặp khi bị hẹp van động mạch chủ do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu từ trái tim đi nuôi cơ thể.
Người bệnh bị phù mắt cá chân hoặc bàn chân.
Có cần giải phẫu?
Hầu hết các vấn đề về van tim có thể được điều trị bằng thuốc, can thiệp hay giải phẫu sang sửa, thay thế. Tùy nguyên do gây hở van, các triệu chứng của bệnh (mỏi mệt, khó thở, đau tức ngực), chừng độ ảnh hưởng của van đến chức năng co bóp của tim, thầy thuốc sẽ tuyển lựa phương pháp điều trị phù hợp với từng bệnh nhân cụ thể. phẫu thuật thường được vận dụng với các trường hợp van tim cần thay thế. Nếu van tim của bệnh nhân bị tổn thương quá nhiều chẳng thể sửa được nữa thì cần phải cắt đi và thay thế bằng van tim nhân tạo. Các van nhân tạo được chia ra thành 2 nhóm: van sinh vật học và van cơ học (được làm bằng kim loại, hay các chất tổng hợp khác...). Can thiệp qua da được áp dụng với các trường hợp hẹp van tim hoặc khuyết tật van tim bẩm sinh. Thay van tim qua da (không mổ) là một kỹ thuật hiện đại nhưng chi phí còn cao.
Thiên can Bính là thiên can đứng thứ ba trong 10 Thiên Can. Những người mang thiên can Bính giống như con cưng của trời già. Tuổi Bính được phủ nhiều lộc tài và ưu ái, may mắn sử dụng ba đời không hết.
Những người mang thiên can Bính mang trong mình một bầu trời ý chí dồi dào và nhựa sống tỏa sáng mạnh mẽ như năng lượng của mặt trời.
Can Bính là một trong những can mang thuộc tính sáng ý và thông minh nhất trong 10 Thiên can. Những người mang thiên can này nghĩ suy và hành động dứt khoát rõ ràng, dám làm dám chịu. ý thức hướng ngoại và sẵn sàng cống hiến của họ rất ăn nhập trong những hoạt động và nghề nghiệp liên quan đến ngoại giao.
Người sinh năm Bính tính cách hăng hái, có ý chí tiến thủ mạnh mẽ, hợp làm lãnh đạo. Họ cũng là những người có khả năng truyền cảm hứng, nhiệt huyết tới mọi người xung quanh rất nhiều.
Những người mang can Bính trong mình thường là người nóng nảy, có nhựa sống mãnh liệt, lại dễ xúc động, thường kèm theo sự câu chấp, nóng tính.
Khi gặp khó khăn với những người sinh năm Bính, lại chính là cú bật dành cho những người này. Họ càng nạm và ý chí của họ được đẩy lên tầm cao hơn.
Nhược điểm của người mang can Bính là thích trình bày, bốc đồng, hay hình thức ngoài mặt, hào nhoáng. Chẳng bởi thế mà họ bị khoác danh hiểu lầm là sống háo danh, thích phóng đại nên cũng gặp phải nhiều người ghét ghen.
Bước sang
những người mang can "Bính" sẽ gặp phải những biến cố và đổi thay nào về tài vận?
Tuổi Bính Thìn (1976) - Sa Trung Thổ
Người tuổi Bính Thìn tính nóng nảy hết phần người đời, nhưng lại không để bụng. Sự nóng nảy, ngay thẳng có phần hấp tấp của người Bính Thìn mang lại không ít rối rắm cho bản thân họ.
Người tuổi này chấp nê, thích độc lập, không thích nhờ vả người khác. Họ chịu thương chịu khó và cần mẫn trong công việc, họ làm việc bằng ham mà không quan tâm rằng công việc dành cho phụ nữ hay đàn ông.
Sống quá rõ ràng và không có sự nhẫn nhục, người Bính Thìn cũng khó hòa hợp với người thân trong gia đình.
Sự tự thị ở người Bính Thìn chỉ cho phép tin bản thân mình, sống một cách lý trí và không có suy nghĩ duy tâm nào len lách vào được con người họ.
kết giao nhân duyên, người Bính Thìn có thể kết hợp với tuổi Tý để xoa dịu đi tính cương cường của mình. Ngoài ra, tuổi Dần, tuổi Dậu, tuổi Hợi cũng là những gợi ý không tồi cho tuổi Bính Thìn. Trong quan hệ làm ăn, có thể chung ý tưởng với Mậu Thân, Nhâm Thân cũng khá lý tưởng.
Bước sang năm 2020 Canh Tý, tuổi Bính Thìn cũng có nhiều đổi thay. Nửa đầu năm 2020 là khoảng thời gian vượng nhất cho tuổi này, nên tranh thủ để làm ăn sinh lời. kinh dinh phát đạt, nguyện cầu được như ý. Bước sang nửa cuối năm, cần thận trọng trong hành sự bởi sẽ bị hao tài tốn của, cửa ải công quyền.
Tuổi Bính Dần (1986) - Lô Trung Hỏa
Người Bính Dần trời sinh tính liều lĩnh, táo bạo, tính nóng nhưng không để bụng. Sự thông minh, tận tình và sáng tạo cùng khả năng tụ hợp cao mang lại cho họ nhiều nhịp trong công việc. Số mệnh những người Bính Dần cũng được gần quan quý, những người cấp bậc cao trong từng lớp.
Mệnh người Bính Dần làm ăn xa quê quán thì lặng. phần đông tuổi này sống không hợp ba má, tình thân với anh em cũng lạt, nhưng họ cũng là người biết chia sẻ và có bổn phận trong việc gia đình.
Trời sinh những người tuổi Bính Dần có số thọ, được hưởng lộc bình an. Tính tự lập của người Bính Dần cao. Bản thân họ nóng nảy, không để bụng nhưng ai đã bị tuổi này ghim thì họ lại thù dai, nhớ lâu.
Tuổi Bính Dần kết thân với tuổi Hợi, tuổi Tỵ, tuổi Sửu được nhiều phần tốt đẹp, viên mãn.
Bước sang năm 2020, tuổi Bính Dần đối diện với nhiều biến động trong cuộc sống. Năm 2020 này, tuổi Dần nên thu liễm, không nên mở mang làm ăn mà bị thua thiệt. Năm bất lợi, có nhiều nạn, công sức bỏ ra nhiều nhưng thu về chẳng được bao nhiêu.
Năm nay, gia đạo tình cảm cũng nhiều buồn tủi. Mất đi chỗ dựa ý thức trong gia đình hoặc trong công việc cũng khiến người tuổi Dần có nhiều đảo lộn trong cuộc sống.
Nên cẩn trọng hành sự và tĩnh tâm trong mọi quyết định sẽ hóa giải được nhiều tai ương.
Tuổi Bính Tý (1996) - Giản Hạ Thủy
Tuổi Bính Tý ra đời nhiều gieo neo, nặng nhọc. Thuở nhỏ chịu nhiều lểu đểu, đến trung niên bắt đầu khá dần là tuổi Bính Tý. Tuổi này kiếm được lộc tài nhưng cũng không giữ được của.
Người Bính Tý chăm chỉ làm ăn, chịu khó học hỏi và làm đầy tri thức của mình. tính hạnh người này hay để bụng và anh dũng, sống theo tính cách của mình, không bị phụ thuộc vào người khác.
Vào năm 29 tuổi của thế cuộc, người Bính Tý nên tránh xa vùng sông nước, biển khơi vì có hạn.
Tính tình người tuổi Bính Tý cũng nóng tính, nhớ dai thù lâu. Tuổi Bính Tý sống xa quê hương được yên ổn và đạt được nhiều thành công hơn. Người tuổi Bính Tý tơ duyên lận đận, cần tu dưỡng và khiên chế bản thân tốt thì không nhỡ nhàng nhân duyên.
Người tuổi này có năng lực lại tận tâm với nghề, khéo léo# được nhiều người quý mến. Tuổi Bính Tý kết thân với tuổi Tý, Thân, Sửu, Tuất được nhiều điều may mắn và hạnh phúc.
Bước sang năm 2020 Canh Tý, tuổi Bính Tý trong công việc đạt được nhiều thành quả khá. Sự nghiệp có nhiều bước tiến mới, may mắn và thuận tiện, truy cầu được như ý muốn.
Năm này, ngoại giả một số người tuổi này cũng nên tu dưỡng nhân hậu, để được hưởng phúc lộc về sau. Nếu tạo thị phi sẽ gặp nhiều nhân quả không tốt.
Vẫn còn tình trạng lạm dụng kháng sinh trong cộng đồng
PGS.TS Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho hay kháng thuốc là mối đe dọa trực đối với an ninh y tế công cộng tại Việt Nam. Ngành y tế cam kết sẽ làm việc với ắt các ngành để nâng cao nhận thức về mức độ nghiêm trọng của kháng thuốc.
Chính vì thế, ngành y tế khuyến khích các đối tác từ ngành nông nghiệp, bệnh nhân, giới truyền thông, các nhà hoạch địch chính sách và cả cộng đồng thực hiện chung tay giúp chấm dứt tình trạng lạm dụng và dùng kháng sinh sai mục đích.
Thông tin trên được đưa ra trong buổi họp báo quản lý dùng kháng sinh cho mai sau không lạm dụng – không dùng sai chỉ định diễn ra cái vẻ 21/11 tại Hà Nội.
PGS.TS Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cảnh báo tình trạng lạm dụng kháng sinh trong cộng đồng
Cũng theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê, giờ vẫn còn tình trạng lạm dụng kháng sinh trong cộng đồng, người dân mua thuốc kháng sinh dễ “như mua rau”, cứ ra hiệu thuốc là mua được kháng sinh.
GS.TS Ngô Quý Châu- Phó Giám đốc đảm trách quản lý, điều hành Bệnh viện Bạch Mai cũng cảnh báo tình trạng, một số bệnh nhân khi thấy có dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng như hơi sốt, ho đã ra hiệu thuốc mua thuốc kháng sinh. Có người lại dùng lại đơn thuốc cũ cách đây 3-4 năm. Nhiều ra hiệu thuốc kể bệnh, người bán thuốc tự động bán thuốc cho, bình thường bao giờ cũng kèm thuốc kháng sinh. Việc tự mua thuốc như thế này có thể không hạp về liều, về thuốc so với mặt bệnh…
“Chẳng hạn một liều cần uống 3g/ngày song người bệnh chỉ uống một nửa liều. Điều nguy hiểm là khi uống kháng sinh mà không đủ liều sẽ dẫn tới việc vi khuẩn thích nghi dần và là một trong những duyên do dẫn đến tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Thậm chí có bệnh nhân mới uống được 2-3 ngày thấy đỡ bệnh đã tự ý ngưng dùng kháng sinh”- GS.TS Ngô Quý Châu nêu thực trạng.
Kháng thuốc: vấn đề không chỉ của riêng nhà nước nào
PGS.TS Lương Ngọc Khuê cảnh báo, kháng thuốc là hiểm họa càng ngày càng lớn đối với con người và nền kinh tế Việt Nam do việc dùng kháng sinh ngày một gia tăng và thiếu kiểm soát trong y tế cũng như trong chăn nuôi. Việc đầu tư, nghiên cứu cho ra đời các kháng sinh mới đã giảm trong nhiều thập kỷ nay, dẫn đến sự thiếu hụt các kháng sinh có hiệu quả để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn đa kháng.
Kháng thuốc hiện tại không chỉ của riêng nhà nước nào mà là vấn đề y tế toàn cầu, đặc biệt nổi trội ở các nước đang phát triển, thế giới mỗi năm có hàng chục ngàn người tử vong do kháng thuốc và phải uổng hàng chục tỷ đô la cho kháng thuốc.
Ông Khuê cũng cho biết, từ năm 2013, Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của WHO “Không hành động hôm nay, mai sau không thuốc chữa” và là một trong số các nước đi đầu trong việc xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc thời đoạn từ năm 2013 đến năm 2020. Việt Nam đã xây dựng chiến lược quốc gia gian nhiễm khuẩn bệnh viện
Tới đây Bộ Y tế sẽ chỉ đạo các bệnh viện có khảo sát đánh giá kết quả thực hành các giải pháp chống kháng kháng sinh. song song kêu gọi các viên chức y tế, bệnh nhân, người thân bệnh nhân, cộng đồng cùng chung tay kết thúc tình trạng lạm dụng và dùng kháng sinh sai mục đích.
Các chuyên gia y tế cho rằng việc dùng lại đơn thuốc cũ để tự ý đi mua thuốc về dùng là rất hiểm
Ảnh minh họa
WHO, FAO cam kết tiếp kiến tương trợ Việt Nam phòng kháng thuốc
Tại cuộc họp, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống kháng thuốc và các đối tác quốc tế bao gồm WHO và FAO kêu gọi tất các ngành tại Việt Nam tăng cường và phối hợp hành động tốt hơn nữa trong cuộc chiến chống kháng thuốc (AMR).
Theo TS Kidong Park, Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam, chúng ta không còn thời gian nữa mà phải hành động ngay từ hôm nay. WHO và FAO cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong những cố phòng kháng thuốc. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả, cần phải tăng cường thẩm tra việc bán thuốc không theo đơn, áp dụng chế tài mạnh để xử lý, tránh tình trạng lạm dụng và tự ý sử dụng kháng sinh sai mục đích.
TS Kidong Pảk cũng
cho hay, trong những năm tới, WHO sẽ giao hội củng cố vai trò của các cán bộ y tế trong cuộc chiến chống lại việc lạm dụng và sử dụng kháng sinh sai mục đích. “Chúng tôi rất hoan nghênh việc Tổng hội y khoa Việt Nam (VMA) đã trở nên đối tác mới của chúng tôi để thực hiện việc giáo dục và khuyến khích bác sĩ và dược sĩ sử dụng kháng sinh hợp lý.”- TS Kidong Park nói
Cũng tại sự kiện này, WHO và VMA đã ra tuyên bố chung để khẳng định cam kết của mình sẽ hợp tác trong việc buồng kháng thuốc.
Bộ Y tế (MOH) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD) đã bắt đầu đánh giá lại Kế hoạch hành động quốc gia về kháng thuốc để đảm bảo sự hiệp tác điều phối giữa các ban ngành trong việc phát triển kế hoạch hành động cho năm tới.
Theo TS Lieberg, kháng sinh không phải lúc nào cũng là câu trả lời cho các bệnh lây ở động vật, và do đó việc người dân cày, người bán thuốc và ngay cả bác sỹ thú y nhận thức rõ hơn về những nguy cơ do kháng thuốc gây ra và dùng kháng sinh có nghĩa vụ là vô cùng quan trọng. Việc này không chỉ để bảo vệ sức khỏe của động vật, con người mà còn để duy trì sự hiệu quả của kháng sinh trong việc điều trị các bệnh ở động vật.
Bệnh
Dengue ở nữ giới có thai có thể gây nguy hiểm đến tính mệnh mẹ và con.
Thai phụ nghi mắc sốt xuất huyết cần nhập viện theo dõi
trình bày sốt xuất huyết trên đàn bà có thai rất khó lường. thành ra, khi đang có thai mà mắc sốt xuất huyết, cần nhập viện điều trị ngay. Bệnh diễn biến nhanh và đa dạng gồm 3 tuổi:
thời đoạn sốt:
Sốt cao đột ngột, liên tục. Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn. Da sung huyết, đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt. Có thể chảy máu dưới da, chân răng, chảy máu cam. Mệt nhiều.
tuổi hiểm nguy:
bình thường thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh.Người bệnh có thể còn sốt hoặc giảm sốt, có thể có các tả sau: vật vã hoặc li bì, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh nhỏ, áp huyết tụt, kẹt, tiểu ít. Xuất huyết dưới da. Xuất huyết niêm mạc: chảy máu mũi, lợi, tiểu ra máu, ra máu âm đạo thất thường. Cận lâm sàng: máu cô đặc, tiểu cầu giảm, men gan tăng. Trong trường hợp nặng, rối loạn đông máu.
tuổi hồi phục:
Sau 1 - 2 ngày của giai đoạn hiểm nguy, bệnh nhân hết sốt, toàn trạng tốt lên, thèm ăn, huyết động ổn định, tiểu nhiều.
do vậy, thai phụ cần cẩn trọng hơn, đi khám bệnh ngay nếu có các triệu chứng nghi ngờ nhiễm siêu vi. Việc dùng thuốc trong thai kỳ cũng rất nghiêm nhặt nên cố định thai phụ phải đến gặp thầy thuốc, không tự mua thuốc uống.
Dấu hiệu và triệu chứng sốt xuất huyết.
Cách nhận biết mức độ nguy hiểm
Sốt xuất huyết Dengue có 3 mức độ:
Ở mức độ nhẹ
(sốt xuất huyết Dengue): có thể có các dấu hiệu như sốt, da sung huyết, phát ban.
Ở chừng độ vừa
(sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo): nữ giới có thai có sốt xuất huyết Dengue phải được nhập viện khi có các dấu hiệu sau: vật vã, lử đử, li bì, đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan; gan to, nôn nhiều, xuất huyết niêm mạc, tiểu ít...
Xét nghiệm: Máu cô đặc, tiểu cầu giảm nhanh.
Ở mức nặng
(sốt xuất huyết Dengue nặng): Bệnh nhân có sốt xuất huyết Dengue nặng phải nhập viện điều trị hăng hái khi có các triệu chứng sau: Bệnh nhân sốc: vật vã, li bì, lạnh đầu chi, da ẩm, mạch nhanh nhỏ, áp huyết tụt, kẹt. Xuất huyết nặng: chảy máu cam, chảy máu tiêu hóa, chảy máu âm đạo... Suy tạng.
Ngoài các dấu hiệu trên, đàn bà có thai phải lưu ý thêm các dấu hiệu: thai ít máy, ra máu âm đạo, đau bụng cơn và bụng co cứng liên tục, đau dữ dội có thể triệu chứng của suy thai, rau bong non, sinh non, trẻ sinh nhẹ cân. Trong lúc chuyển dạ trẻ có thể bị suy thai cấp, khi người mẹ có chỉ định sinh mổ thì có nguy có chảy máu nặng đe dọa đến tính mệnh.
Không có chứng cớ khoa học có sự truyền virut Dengue từ mẹ sang con khi trong bào thai khi chưa có chuyển dạ.
Trong lúc chuyển dạ, mẹ bị sốt xuất huyết Dengue có thể em bé sẽ bị sốt trong 1-2 tuần tuổi, điều đó rất khó khăn để điều trị. Những dấu hiệu cần để ý với em bé như sau: sốt cao từ 40 độ trở lên hoặc hạ nhiệt độ dưới 36 độ, cáu gắt, khích động hoặc li bì, bỏ bú, phát ban.
Về điều trị
Do không có vắc-xin đề phòng sốt xuất huyết Dengue cho phụ nữ mang thai và không có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ có thể điều trị triệu chứng. Khi có dấu hiệu mắc bệnh thai phụ cần đi khám để có chỉ định điều trị. Những trường hợp nhẹ, bệnh nhân có thể tự khỏi trong vòng vài ngày và có thể điều trị, theo dõi bệnh tại nhà. Điều trị sốt xuất huyết Dengue vừa và nặng phải được điều trị ở bệnh viện chuyên khoa lây hoặc khoa hồi sức có kết hợp với sản khoa.
Lời khuyên của thầy thuốc
Thai phụ nếu mắc bệnh này sẽ rất hiểm nguy, nhất là trong tuổi đầu và cuối thai kỳ. Do tác động của tình trạng sốt cao và rối loạn đông máu, thai có nguy cơ bị sẩy, chết lưu trong giai đoạn đầu. Nếu bệnh ở cuối thai kỳ và trong khi chuyển dạ, có thể gây xuất huyết nhiều, tử vong cho cả mẹ lẫn con.
Bệnh này cũng dễ bị chẩn đoán nhầm với tình trạng nhiễm virut bình thường, nhất là ở thai phụ đã có sẵn tình trạng pha loãng máu sinh lý nên rất khó phát hiện duyệt xét nghiệm tình trạng đông máu.
Vì vậy, thai phụ cần cẩn trọng hơn, đi khám bệnh ngay nếu có các triệu chứng nghi nhiễm virut. Việc dùng thuốc trong thai kỳ cũng rất nghiêm nhặt nên cố định thai phụ phải đến gặp thầy thuốc, không tự mua thuốc uống. Dưỡng bệnh đúng cách, kỹ lưỡng cũng là cách bạn hạn chế những nguy cơ cho mình và con.
Trên hết, thai phụ cần giữ tâm cảnh tĩnh tâm, không quá lo âu, tuân thủ hướng dẫn của thầy thuốc trị bệnh sốt xuất huyết lẫn bác sĩ theo dõi thai. Nếu đã gần kỳ sinh nở mà đang bệnh, nên sắp đặt để đi sinh tại bệnh viện phụ sản lớn, bệnh viện tuyến tỉnh - nơi có đầy đủ công cụ và nhân lực để đối phó với các tình huống xấu.
Tốt nhất nên chủ động phòng bệnh trong mùa mưa, vệ sinh môi trường sống, diệt lăng quăng, diệt muỗi, ngủ màn kể cả ban ngày, khai quang môi trường, không để nước đọng tạo điều kiện cho muỗi sinh nở...
Khi bị sốt xuất huyết, không tự truyền dịch khi không có chỉ định của bác sĩ. Không dùng các thuốc hạ sốt khác không phải paracetamol (nếu dùng phải hỏi bác sĩ). Cần theo dõi ở các khoa cấp cứu hoặc khoa lây và có sự kết hợp chuyên môn của bác sĩ sản khoa. Sốt xuất huyết khi chuyển dạ là cực kỳ hiểm, có nguy cơ băng huyết sau sinh và có thể tử vong.