Thứ Năm, 21 tháng 11, 2019

Rau cỏ một thời

Ngoài những thứ khôn cùng sát sườn trên ấy, còn 2 thứ nữa luôn có mặt, là cái bu gà và mấy gốc dọc mùng.

Hai cái xe ấy là cả gia tài của nhà tôi: 4 cái ba lô áo quần xoong nồi của cải chằng vào nhau treo hai bên cái đèo hàng, hai anh em tôi ngồi trên ấy, chân ngắn tí mà phải dạng choàng lên 2 cái ba lô nên rất mỏi, ba mẹ tôi mỗi người một xe kĩu kịt đạp. Đến nơi di tản, nhà dân hoặc nhà tập thể tranh tre nứa lá của cơ quan làm trước đấy, thì một trong những việc quan trọng của mẹ tôi là kiếm chỗ có nước để trồng mấy gốc dọc mùng ấy xuống, ba thì loay hoay làm chuồng gà.

Dọc mùng nhà tôi hay trồng suốt những ngày ấy là loại màu đỏ, chuẩn xác là tím đỏ. Phải nói thế vì sau này tôi thấy có loại dọc mùng trắng. Gặp nơi đất tốt, sẵn ẩm, có cây cao ngang đầu tôi, chúng tôi chơi đánh trận giả toàn chui vào đấy trốn.

Dọc mùng khéo chế biến có thể ra được những món ăn ngon rất độc đáo khó quên.

Dọc mùng khéo chế biến có thể ra được những món ăn ngon rất độc đáo khó quên.

Dọc mùng là thức ăn của gia đình tôi suốt thời bom đạn ấy. thông thường thì xào, nấu canh suông, có khách ngả con gà thì nó được xào với lòng, nấu canh với xương gà...

Cùng họ với nó có khoai nước, khoai ngứa, ráy vân vân. Nó có hai đặc tính khác các loại kia, một là dai, dai mới vò được, và hai là, đã vò rồi thì không ngứa nữa.

Dọc mùng cắt vào, tước vỏ rồi thái lát nghiêng, xong cho muối hạt vào và cứ thế vò, cho nó thật kiệt đi thì rửa nước sạch rồi lại vắt kiệt đi là dùng được.

Mẹ tôi có đặc tài chế biến ra các món ăn từ dọc mùng. Ngoài nấu canh với chân, đầu gà (vịt), xào với lòng... khi nhà có khách, thì ngày thường bà nấu mẻ, nấu với hến, xào tóp mỡ... Tóm lại nó là thứ thức ăn thời trân của nhà tôi thời ấy. Hôm nào đến kỳ đào củ để trồng mới thì có món chè đần bên cạnh rổ củ luộc, hoặc nướng...

Ăn đến phát... kinh, khi về quê nội sau năm 75 thì không thấy cây dọc mùng nữa, nhưng lại có một cây họ với nó, chóp môn. Nó là cây khoai nước ngoài Bắc, không ngứa lắm. Nói thêm, ngay cả khoai ngứa mẹ tôi cũng xử lý thành những món ăn ngon lành mà một trong những nguyên tắc là khi nấu không được... nhúng đũa vào. Nếu nhúng đũa tức khắc nó ngứa đến... tụt lưỡi, đến rách họng, còn không nhúng, nó ngứa... lăm tăm, ăn xong cả tiếng vẫn... dìu dịu ngứa. Thời đói khổ, có mà ăn là tốt rồi, ngứa lăn tăn là muỗi. Cái vòi non của nó ấy, nơi gọi nõn, nơi gọi dãi, tức là cái mầm rất dài của nó quấn những cái nõn non chưa thành lá, mẹ tôi chế biến thế nào mà ăn rất ngon, dù ngay khi chưa làm gì, cầm vào tay là nó đã ngứa đến phát cuồng rồi.

Thì trở lại, ở Huế có món chóp môn.

Ở vùng nông thôn Thừa Thiên Huế có mấy món mà bà con hay muối để dùng dần, một là măng vòi, tức là những cái tay tre ấy, lấy cái phần non đầu cành của nó, muối chua. Thứ 2 là cây môn, trồng ngàn ngạt, cũng để lấy cọng muối, củ luộc ăn. Và thứ 3 nữa là cây chột nưa, cái cây nức tiếng nhờ... thơ Tố Hữu: Ăn đi vài con cá, dăm bảy cái chột nưa...

Những thứ muối chua này, nấu canh thì tuyệt trần. Trưa nắng, mớ cá đồng, hoặc mấy con cá biển, nước sôi lên, thả chóp môn muối vào, thả cá vào, mắm muối nữa. Ớt bột chưng, đúng ớt Huế ấy, đổ vào. Xong béng. Chua và ngọt. Cơm và mồ hôi. Hổn hển và xuýt xoa... Huế thời... đói.

Nhưng giờ về quê, một trong những món tôi đòi ăn là... chạch (quê tôi gọi là cá zét), hoặc cá trê, kho chóp môn muối. thế mà khó kiếm nhé, là chóp môn muối ấy. Chợ không phải lúc nào cũng có bán cái món một thời ăn tê lưỡi (vì lăm tăm ngứa) này, cũng ít nhà muối. Cô em dâu nể anh phóng xe đi khắp xóm xin, thế mà bữa có bữa không. Tôi nói thật, cơm gạo quê, ăn với chóp môn muối chua kho chạch, tốn kinh khủng.

Mà nó, dọc mùng ấy, hoá ra hoàn toàn không phải chỉ là món ăn của thời đói khổ, thay rau và thay... cơm. Ra Hà Nội, la liệt các quán treo biển rất đậm: Bún dọc mùng, miến dọc mùng... Mỗi bát được bà chủ nhúm cho vài lát dọc mùng, ăn hết xin thêm còn bị nguýt. Cái quán gì bún chửi cũng chỉ là bún với lưỡi, chân giò với dọc mùng thôi thế mà phát khổ phát sở vào ăn để vừa ăn vừa nghe... chửi.

Tôi sau này học mẹ, đi đâu cũng vác theo mấy thứ xứ Bắc: Mẻ, dọc mùng, mắm tôm đen... dù toàn ở thành thị. Nhà tôi ở giờ, trước có miếng đất trống, thả mấy gốc dọc mùng, mùa mưa tốt um lên. hãn hữu làm bữa, xào lòng gà, nấu canh cá. Hôm nào có bạn nhậu, làm bữa miến vịt, có hẳn một rổ ụ dọc mùng, chứ không phải lắc rắc vài sợi như quán bún chửi Hà Nội, phải “cập nhật” cách ăn cho bạn nhậu, chứ trong này, dọc mùng toàn cho... lợn. Bạn tôi vừa ăn vừa khen, thế ra lợn lâu nay sướng thật, mình còn thấy ngon thế thì lợn thấy ngon đến như thế nào? Vấn đề là mấy năm nay miếng đất ấy bị bê tông, một cái nhà 2 tầng làm ở đấy, có một con đường bê tông. Chiều nay, sau mấy cơn mưa đầu mùa, ơ kìa, ở kẽ nứt của tảng bê tông, mấy cây dọc mùng nhô lên. té ra, nó có một sức sống khủng khiếp thật...

Văn Công Hùng

Bốc 3 lá bài Tarot để biết năm Canh Tý 2020 của bạn tài lộc có đầy nhà, tiền bạc của cải có dư dả sung túc hay không

Vậy là năm 2019 đã sắp nói lời tạm biệt. Khoảng thời kì cuối năm thực sự bận rộn khi bạn phải tổng kết lại năm cũ và chuẩn bị cho một năm mới. Bạn đã sẵn sàng đón nhận những tin cẩn mới về tình trạng tài chính của mình trong năm Canh Tý 2020 chưa? Hãy thư giãn và để Tarot tiết lộ điều bạn muốn biết nhé!

1. trước hết, hãy hít thở thật sâu, giao hội ý thức và bốc một lá bài Đầu tiên để biết tình hình tài chính hiện tại của bạn.

2. Bốc lá bài tiếp theo để biết tình hình tài chính trong năm 2020 sẽ lên xuống thế nào.

3. Lá bài cuối là lời khuyên dành cho bạn.

*Lưu ý: Mỗi lần đặt câu hỏi, bạn chỉ nên bốc xem bài tarot một lần để có được kết quả chính xác nhất.

Từ 1/1/2020 chính thức tăng lương tối thiểu vùng

Theo đó, từ ngày 1/1/2020, lương tối thiểu vùng sẽ tăng thêm từ 150.000 đồng đến 240.000 đồng so với mức ứng dụng năm 2019.

Cụ thể, mức lương tối thiểu vùng I tăng từ 4.180.000 đồng/tháng lên 4.420.000 đồng/tháng; Vùng II tăng từ 3.710.000 đồng/tháng lên 3.920.000 đồng/tháng; Vùng III tăng từ 3.250.000 đồng/tháng lên 3.430.000 đồng/tháng; vùng IV tăng từ 2.920.000 đồng/tháng lên 3.070.000 đồng/tháng.



Địa bàn ứng dụng mức lương tối thiểu vùng được quy định theo đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Danh mục địa bàn ứng dụng mức lương tối thiểu thuộc vùng I, vùng II, vùng III và vùng IV được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.

Từ 1/1/2020 lương tối thiểu vùng sẽ tăng thêm từ 150.000 đồng đến 240.000 đồng so với mức vận dụng năm 2019.



Nghị định nêu rõ mức lương tối thiểu vùng quy định trên là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận và trả lương, trong đó mức lương trả cho người cần lao làm việc trong điều kiện lao động thường nhật, đảm bảo đủ thì giờ làm việc thông thường trong tháng và hoàn tất định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận phải đảm bảo: Không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với người cần lao làm công việc giản đơn nhất; cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng đối với người cần lao làm mướn việc đòi hỏi người lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề theo quy định.



Khi thực hành mức lương tối thiểu vùng quy định tại Nghị định này, doanh nghiệp không được xóa bỏ hoặc cắt giảm các chế độ tiền lương khi người cần lao làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, làm việc trong điều kiện cần lao nặng nhọc, độc hại, chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với các chức danh nghề vất vả, độc hại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật cần lao. Các khoản phụ cấp, bổ sung khác, trợ cấp, tiền thưởng do doanh nghiệp quy định thì thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp.

Nghị định chỉ dẫn doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn nào thì áp dụng mức lương tối thiểu vùng quy định đối với địa bàn đó. Trường hợp doanh nghiệp có đơn vị, chi nhánh hoạt động trên các địa bàn có mức lương tối thiểu vùng khác nhau thì đơn vị, chi nhánh hoạt động ở địa bàn nào, áp dụng mức lương tối thiểu vùng quy định đối với địa bàn đó.



Nguyễn Lan

Duy trì cân nặng phù hợp với người trưởng thành

Tình trạng dinh dưỡng người trưởng thành có sự thay đổi, khi cân nặng giảm hoặc tăng cân. cho nên, mỗi người chúng ta cần biết số cân nặng ở “mức nên có” của mình để duy trì, phòng tránh thừa cân/ béo phì và suy dinh dưỡng trường diễn.

Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng với khoảng 63 triệu người trong độ tuổi cần lao. Theo thống kê năm 2015 cho thấy, tỉ lệ tham dự lực lượng lao động chưa cao chỉ chiếm khoảng 78,8% dân số. song song khoảng 70% dân số sống và khoảng 48% cần lao đang làm việc ở khu vực nông nghiệp, nông thôn - khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp. Một trong những căn nguyên là do nguồn nhân công chất lượng thấp, thể lực và trí lực thấp đã ảnh hưởng tới năng suất cần lao thấp.

bây giờ, tỉ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở đàn bà tuổi sinh đẻ là 15,1% (năm 2014), cũng theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng (năm 2014 - 2015) về tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở nữ giới tuổi sinh nở còn cao có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng như: tỉ lệ thiếu máu ở đàn bà có thai là 32,8% và đàn bà không có thai là 25,5%; Tỉ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ có thai trên toàn quốc đặc biệt cao ở mức 80,3%, ở miền núi là 87%, ở nông thôn là 80,1%, ở đô thị 70,8%; tỉ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ tuổi sinh đẻ cũng rất cao chiếm 63,6%, tỉ lệ này ở miền núi là 73,4%, nông thôn 60,3% và tỉnh thành 54,5%. Tình trạng thiếu iốt đã và đang quay trở lại đe dọa đến sức khỏe, trí óc của nòi giống người Việt Nam.

Duy trì cân nặng phù hợp với người trưởng thành

đàn bà tuổi sinh nở, đàn bà có thai bị suy dinh dưỡng trường diễn, thiếu các vi chất dinh dưỡng dễ có nguy cơ khi mang thai bị đẻ non, sảy thai, dị tật ống thần kinh… Trẻ sinh ra có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2.500g), bị thiếu các vi chất dinh dưỡng (vitamin A, sắt, kẽm), dễ bị mắc bệnh là căn do quan yếu ảnh hưởng tới sự phát triển về thể lực, tầm vóc và trí não của trẻ khi trưởng thành.

Người trưởng thành có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của sơn hà, lao động chính để tạo ra nguồn thu nhập cho gia đình, do vậy họ cần phải có một nền móng sức khỏe tốt, Đồng thời nhân tố quyết định là có tầm vóc, thể lực và tình trạng dinh dưỡng tốt.

Có nhiều công thức tính cân nặng ở “mức nên có” vận dụng cho cả nam và nữ:

- Cân nặng lý tưởng = (chiều cao (cm) – 100) x 0,9.

Ví dụ: 1 người cao 1,63m (163cm), vận dụng vào công thức tính như sau:

Cân nặng lý tưởng = (163 - 100) x 0,9 = 56,7kg.

- Công thức tính theo chỉ số khối cơ thể BMI được Tổ chức Y tế Thế giới khuyên dùng.

Cân nặng (kg)

BMI = ---------------------------------

Chiều cao x Chiều cao (m)

Như vậy BMI bằng cân nặng (tính theo kg) chia cho chiều cao (tính theo m) bình phương.

Cách đánh giá tình trạng dinh dưỡng dựa vào BIM như sau:

BMI < 18,5: gầy.

BMI từ 18,5 - 24,9: thường ngày.

BMI ≥ 25: thừa cân.

BMI > 30: béo phì.

Với người châu Á nói chung, người Việt Nam nói riêng thì:

BMI từ 18,5 - 22,9: bình, thường.

BMI ≥ 23: thừa cân.

BMI > 25: béo phì.

Như vậy, với người Việt Nam khi có BMI < 18,5 là người có cân nặng thấp hay bị gầy/thiếu năng lượng trường diễn. Người có cân nặng thấp/người bị gầy do không ăn đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng theo nhu cầu cần thiết của cơ thể, mức tiêu hao năng lượng nhiều hơn mức ăn vào.

Muốn tăng cân để đạt được mức cân nặng ở “mức nên có” hoặc 18,5 ≤ BMI ≤ 22,9 thì trước tiên cần ăn thêm cơm hay các thức ăn chứa nhiều tinh bột như xôi, miến, bánh mì… và các món xào, rán có thêm dầu mỡ để cung cấp năng lượng.

Để tăng số lượng thức ăn hàng ngày, ngoài 3 bữa chính cần ăn thêm các bữa phụ như sữa, bánh ngọt, khoai củ… Nên ăn thêm đều đặn mỗi càng ngày càng hộp sữa chua (120ml) giúp kích thích tiêu hóa, tiếp thu tốt các chất dinh dưỡng. phối hợp các hoạt động thể lực vừa phải, hợp lý giúp ăn ngon miệng. Uống đủ nước (nước rau, nước hoa quả hoặc nước đung sôi để nguội).

Lời khuyên của bác sĩ

Để tăng cân với người có cân nặng thấp hay bị gầy/suy dinh dưỡng trường diễn thì cần ăn thêm tinh bột, chất béo và tăng lượng thức ăn hàng ngày, tuy nhiên lượng tăng cũng không nên quá nhiều làm cơ thể khó tiêu hóa, hấp thụ hết dẫn đến đầy bụng, rối loạn tiêu hóa hoặc chuyển sang xu hướng thừa cân/béo phì. Ngoài ra cần có chế độ lao động hợp lý, không nên làm việc căng thẳng quá sức, nên dành thời gian nghỉ ngơi thoải mái và ngủ đầy đủ.

ThS.BS. NGUYỄN VĂN TIẾN

Bài thuốc trị viêm da cơ địa

Theo thống kê, có tới 45% VDCĐ do di truyền. Bố mẹ bị VDCĐ thì 80% con cũng bị VDCĐ. Ngoài ra, nguyên tố khí hậu , môi trường làm da bị mất nước và sừng hóa; tiếp xúc với hóa chất tẩy rửa, kem mỹ phẩm... làm thương tổn đến tế bào da; thiếu dinh dưỡng hay rối loạn hấp thu các vitamin A, C, D, E mà gây nên VDCĐ.

VDCĐ tuy không hiểm nguy đến sức khỏe nhưng làm cho người bệnh gặp nhiều phiền toái trong sinh hoạt hàng ngày và thiếu tự tin trong giao tế. VDCĐ không dễ điều trị dứt điểm nhất khi phải dùng những thuốc corticoid gây nhiều tác dụng không mong muốn cho người bệnh. Thuốc có nguồn cội thảo dược tự nhiên lại có những ưu điểm và hiệu quả cao trong điều trị bệnh VDCĐ.

Người bệnh VDCĐ thường có triệu chứng: da khô ráp dày sừng, bong vẩy, hay sưng tấy, có khi nổi mụn và tấy đỏ, da khô bị nứt nẻ bong vẩy từng lớp có khi chảy máu, đau nhức, nhất là khi có nhiễm khuẩn thành những mụn nước dưới da ngứa và lan rộng. tổn thương ở nhiều vị trí khác nhau trên thân thể nhưng rõ rệt nhất là ở vùng lòng bàn tay, lòng bàn chân, ngón bộ hạ và các nếp gấp lớn, cẳng chân tay, bắp đùi, mông, bẹn, bụng, trên mặt,...

Kinh giới là vị thuốc trong bài “Kinh phòng bại độc tán” trị viêm da cơ địa.

Kinh giới là vị thuốc trong bài “Kinh phòng bại độc tán” trị viêm da cơ địa.

Các bài thuốc hay dùng trị VDCĐ:

Bài 1 - Tiêu phong tán: đương quy 10g, phòng phong 8g, tri mẫu 8g, thuyền thoái 6g, khổ sâm 10g, kinh giới 10g, ngưu bàng tử 8g, thương truật 12g, thạch cao 8g, sinh địa 12g, cam thảo 4g. Có thể thêm kim ngân hoa 12g, bồ công anh 12g, sài đất 12g, rau má 12g, thổ phục linh 12g... Tác dụng: thanh nhiệt trừ thấp. Trị phát ban ngứa, Eczema, đám mẩn trên da sắc đỏ hay khắp người có ban ngứa, có khi chảy nước.

Bài 2 - Kinh phòng bại độc tán: khương hoạt 8g, nam sài hồ 8g, chỉ xác 8g, kinh giới 8g, cát cánh 6g, độc hoạt 8g, phục linh 12g, phòng phong 8g, xuyên khung 8g, cam thảo 4g. Gia hoàng liên 8g, hoàng cầm 8g, bồ công anh 12g, liên kiều 8g, ngân hoa 12g, khổ sâm 10g, thuyền thoái 4g, bạch tiên bì 8g... Sắc uống. Bài thuốc có tác dụng tán phong trừ thấp, thanh nhiệt giải độc. Trị mề đay, VDCĐ, eczema, viêm da nhiễm khuẩn...

Bài 3 - Thanh dinh thang: đảng sâm12g, mạch đông 12g, hoàng liên 8g, liên kiều 10g, trúc diệp 8g, đan sâm 10g, ngân hoa 12g. Gia thêm phù bình 12g, đơn tướng quân 12g, sài đất 12g, rau má 12g, thương nhĩ tử 12g, tang bạch bì 12g... Sắc uống. Tác dụng: thanh dinh trừ thấp nhiệt, dưỡng âm dưỡng huyết. Trị viêm da, ban dị ứng...

Bài 4 - Tiêu độc thang: bồ công anh 16g, sài đất 16g, kim ngân dây 12g, thương nhĩ tử 12g, cam thảo dây 12g. Sắc uống. Trị chốc lở , mụn nhọt...

Bài 5 - Ráy dại hồng đơn cao: củ ráy dại 50g, hồng đơn 30g, dầu trẩu 250ml. Củ ráy dại rửa sạch thái mỏng cho vào dầu trẩu đun sôi kỹ, khi củ ráy cháy đen bã nổi lên, vớt bỏ bã, cho hồng đơn đã được rang khô vào quấy đều, tiếp chuyện đun nhỏ lửa tới khi thành chất lỏng thật mượt (hoặc thả ít cao đó vào nước nguội sờ không dính tay) là được. Cao đang nóng phun nước vào (vừa phun vừa quấy) để khử chất độc trong cao. Mỗi ngày rửa và bôi thuốc vào da thương tổn 1 lần.

Bài 6 - Cao nghệ vàng ráy dại: củ nghệ vàng 40g, củ ráy dại 40g, sáp ong 80g, dầu vừng 160g. Nghệ, ráy rửa sạch, thái mỏng cho vào dầu vừng đun cháy đen, bã nổi lên vớt bỏ rồi cho sáp ong vào đun quấy cô cho đặc sệt như cao. Hàng ngày rửa sạch rồi bôi cao ngày 1 lần.

để ý: Bệnh VDCĐ liên tưởng tới dị ứng nên bệnh nhân để ý kiêng tiếp xúc với các hóa chất gây dị ứng, mỹ phẩm, lông thú; hay các thực phẩm dễ gây dị ứng như tôm cua, mực, nhộng tằm, da gà. Vệ sinh và để ý giữ ẩm cho da. Hàng ngày nên uống đủ nước, ăn uống đủ dinh dưỡng, không để thiếu các chất nhất là vitamin.

TS.BSCK2. Trần Lập Công